• Cart Image
    Turmeric Powde
    $ 34.99
  • Cart Image
    Pure Jeans Coffee
    $ 26.99
  • Cart Image
    Columbia Chocolate
    $ 26.99
Total - 140$ View Cart
Cây khoai mỡ (Diorcorea alata) là một loại cây cho củ, dùng làm lương thực thực phẩm đã xuất hiện từ lâu đời ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ.

 A. PHẦN 1: GIỚI THIỆU

Cây khoai mỡ (Diorcorea alata) là một loại cây cho củ, dùng làm lương thực thực phẩm đã xuất hiện từ lâu đời ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ.

Tại Việt Nam, khoai mỡ được trồng nhiều ở vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) vì đây là loại cây tương đối chịu phèn. Tuy nhiên những nghiên cứu về cây khoai mỡ còn quá ít nên bà con nông dân huyện Thạnh Hóa trồng khoai chủ yếu dựa vào kinh nghiệm lâu đời và học hỏi lẫn nhau. Trong vụ Đông Xuân năm 2002 toàn huyện có đến 1737 ha đất trồng khoai mỡ. Sau đây là vài nét về kỹ thuật trồng khoai mỡ trên vùng đất phèn huyện Thạnh Hóa - Long An.

B. PHẦN 2: QUY TRÌNH KỸ THUẬT

1. Mùa vụ

Khoai mỡ có thể trồng quanh năm, ở vùng Đồng Tháp Mười thì bắt đầu từ tháng 11 (khi nước lũ vừa rút xuống) và thu hoạch vào tháng 5 - 6 âm lịch của năm sau.

- Chuẩn bị đất trồng.

- Lên líp.

Lên líp là một điều kiện bắy buột đối với trồng khoai mỡ trên vùng đất phèn Đồng Tháp Mười. Là cây chịu phèn nên việc đào mương lên líp được tiến hành một cách tự nhiên mà không cần áp dụng kiểu cuốn chiếu để tránh phèn như các loại cây trồng khác.

Kích thước mương líp phụ thuộc vào đất gò cao hay đất thấp trũng, trung bình thì kích cỡ như sau: rộng 3 - 5 m; cao 0.3 - 0.6 m; lối đi 0.3 - 0.5 m.

Kênh tưới: rộng 1.5 - 2 m; sâu 0.6 - 0.8 m.

- Chuẩn bị đất:

Đất trồng phải được làm tơi xốp và dọn sạch cỏ.

Đất cũ: vừa thu hoạch khoai vụ này vừa đánh đất trở đất cho tơi xốp, vét sạch hai bên lối đi, sửa líp cho bằng phẳng để chuẩn bị cho vụ sau.

Đất mới: dùng dá, cuốc trở líp 1 – 2 lần, vừa trở vừa đánh đất cho tơi xốp, sửa líp bằng phẳng và cho ngập một mùa nước lũ mới trồng.

Sau 2 - 3 năm kênh sẽ cạn dần, ta nên vét lại kênh đưa đất lên líp để đảm bảo độ cao của líp và độ sâu của mương.

- Phủ cỏ lên líp:

Phủ cỏ trên líp để trồng khoai là rất quan trọng và tốt nhất là dùng cỏ mồm hoặc cỏ bàng vì hai loại cỏ này lâu bị phân hủy về sau. Tránh trường hợp dùng cỏ năng hay rơm rạ vì mau bị phân hủy dây khoai sẽ tiếp xúc với đất, các đốt thân sẽ cho nhiều rễ phụ và củ đeo làm tiêu hao dinh dưỡng, giảm năng suất. Ngoài ra phủ bằng cỏ năng hay rơm rạ phân bón sẽ không lọt xuống đất được.

Công việc phủ cỏ được tiến hành trước khi trồng, khi nước lũ vừa rút xuống, trung bình lớp phủ dày khoảng 3 - 5 cm. Tác dụng của lớp cỏ là:

+ Giữ ẩm cho đất.

+ Hạn chế cỏ dại.

+ Hạn chế rễ phụ và củ đeo trên các đốt thân.

- Chuẩn bị giống:

Giống có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất nên việc chọn giống và xử lý giống phải nghiêm ngặt. Giống được mua từ vùng đất khác đem về, trước khi đem ra cắt mục tạo giống, củ giống phải được xủ lý bằng các lại thuốc sau: Bassa, Aplau... nhằm mục đích diệt sạch các mầm bệnh trên củ giống.

Từ 1 kg củ giống có thể tạo được từ 10 - 12 mục giống, các mục giống được đưa qua xử lý bằng vôi hoặc vôi + ximăng (theo tỉ lệ 1 : 1). Tác dụng của việc xử lý vôi là chống lại hiện tượng thối lầy mặt cắt do nấm hoặc vi khuẩn gây ra, sau đó mục giống được đem đi ủ tro.

Cách ủ như sau:

Trải một lớp tro mỏng khoảng 5 cm, sắp lê đó một lớp mục giống (lát cắt khoai để làm giống) và đổ thêm tro ngập lớp mục giống đó, tiếp tục cho lớp khoai thứ 2 lên và phủ tro kín lại. Có thể ủ một lớp khoai 2 lớp tro hoặc 2 lớp khoai 3 lớp tro.

Sau khi ủ 2 - 3 ngày thì tưới nước một lần, nếu ẩm độ cao quá khoai sẽ bị thối, nếu ẩm độ thấp quá khoai lâu mọc mầm. Sau 5 - 6 ngày nếu thấy mặt cắt bị thối thì dở ra cạo hết lớp thối đó rồi đem ủ trở lại. Sau 20 ngày thì mầm khoai lên khoảng 3 - 5 cm, lúc này có thể mang đem ra trồng. Những mục khoai ở đầu củ thì có khả năng mọc mầm mạnh hơn ở những nơi khác, sau 20 ngày những mục nào chưa lên mầm thì đem ủ lại, sau 40 ngày những mục không lên mầm sẽ được loại bỏ.

2. Kỹ thuật trồng

Kỹ thuật trồng khoai đơn giản, dao nhọn vén lớp cỏ phủ trên mặt líp, xới chổ trồng cho tơi xốp và đặt mục khoai giống xuống (vỏ khoai tiếp xúc với đất, mặt cắt hướng lên trên. Mật độ trồng:

Cây cách cây: 50 - 60 cm.

Hàng cách hàng: 50 - 60 cm.

3. Làm cỏ

Trong suốt quá trình sinh trưởng của cây khoai chỉ làm cỏ 1 lần, sau đó dây khoai phủ kín líp nnê líp không còn cỏ nữa.

4. Bón phân

Hiện nay bà con nông dân bón khoai mỡ với lượng đạm khá cao gây mất cân đối giữa N:P:K không mang lại hiệu quả kinh tế mà còn sinh ra bệnh hại. Chúng tôi khuyến cáo hai công thức sau:

Đất mới trồng: 100 N – 90 P2O5 – 90 K2O.

Đất cũ: 120 N – 90 P2O5 – 90 K2O.

Và nên chia thành từ 3 đến 5 lần bón:

Bón lót có thể không cần.

  • Đợt 1: 15 đến 20 ngày sau trồng.
  • Đợt 2: 40 đến 45 ngày sau trồng.
  • Đợt 3: 60 đến 65 ngày sau trồng.
  • Đợt 4: 80 đến 85 ngày sau trồng.
  • Đợt 5: sau 3 tháng nếu thấy khoai xấu vàng thì có thể bón dặm thêm.

Cách bón: hai đợt đầu khoai chưa phủ kín líp ta nên bón theo hốc, các đợt còn lại ta nên rải đều trên mặt líp, bón phân cần kết hợp với tưới nước để nâng cao hiệu quả của phân bón.

Tưới nước: khi nước lũ vừa rút ta tiến hành trồng ngay, đất còn ẩm nên nhẹ tưới ở giai đoạn đầu. Sau đó sang mùa khô nên định kỳ nước tưới 10 - 15 ngày/lần mới đảm bảo cho khoai phát triển.

5. Phòng trừ sâu bệnh

Ở giai đoạn ủ tro khoai dễ bị tấn công bởi các loại nấm mốc gây hại mầm nên ta có thể phun vào tro các loại thuốc Validacin, Kasai, Kitazin...

Ở giai đoạn ngoài đồng ruộng khoai bị tấn công bỡi sâu ăn lá, rêp sáp, bệnh bả trầu, bệnh vàng lá, đốm lá, bệnh mục đầu củ... Nhìn chung thì đối với cây khoai những loại sâu bệnh trên lá, trên thân tương đối dễ trị và ít thiệt hại về năng suất. Chỉ có hai loại sau đây là tương đối khó trị (1) côn trùng: rệp sáp trên củ và (2) bệnh mục đầu củ được xem là nguy hiểm nhất, thường gây thiệt hại đến năng suất.

5.1. Rệp sáp (chờ định danh): là loại côn trùng gây hại nguy hiểm nhất trên cây khoai mỡ cả ấu trùng và thành trùng đều hút nhựa cây, ở củ làm cho củ khoai không lớn được. Mặt khác rệp sáp gây hại dưới mặt đất nên ta không thể kiểm soát được bằng thuốc hóa học. Ở các vùng chuyên canh trồng khoai mỡ rệp sáp thường xuất hiện sau một vài cơn mưa đầu mùa (tháng 3 - 4) và có khả năng lây lan rất nhanh. Xuất phát từ đó qua điều tra khảo sát cây ký chủ phụ của rệp sáp vào mùa nước lũ là:

Trên cây cỏ mồm: nhận thấy những ổ rệp sáp trên bẹ lá và chính bà con nông dân lại đem cây có mồm này chất đống lại trên líp để làm lớp cỏ phủ líp sau này.

Trên cây tràm cũng nhận thấy có những ở rệp sống cộng sinh với những đàn kiến hôi đen. Điều này rất có thể là sau khi trồng khoai kiến đã mang rệp sáp từ cây tràm xuống líp khoai. Từ đó kiến là môi giới lây lan cho rệp sáp, làm dịch hại diễn ra ngày càng mạnh và nhanh hơn.

5.2. Bệnh mục đầu củ: đây là bệnh được xem là nguy hiển nhất trên cây khoai mỡ, ngoài đồng ruộng bệnh làm giảm năng suất từ 10 – 80%. Sau đó bệnh tiếp tục phát triển hoăïc xâm nhập gây bệnh ngay trong thời gian bảo quản. Bệnh cũng thường xuất hiện sau một vài cơn mưa đầu mùa (tháng 3 – 4). Đã có nghiên cứu cho rằng nguyênnhân gây bệnh là do tuyến trùng pratylenchus sp. gây ra. Tuy nhiên nếu xét về triệu chứng bệnh lý thì vẫn còn có một số điểm chưa hợp lý.

- Khi bệnh xuất hiện thì không biểu hiện một triệu chứng nào trên thân lá. Tuyến trùng là một động vật hạ đẳng ký sinh thuộc ngành giun tròn, tấn công cây trồng bằng cách chích hút dịch tế bào cây, men tiêu hóa, độc tố và các chất bài tiết của chúng thường tác động vào cây trồng gây ra những triệu chứng nhất định. Ví dụ tuyến trùng Dytylenchide sp đã làm cản trở sự sinh trưởng của khoai tây, hành tỏi... Tuyến trùng Meloidogyne sp gây nốt sưng trên rễ của nhiều loại cây trồng như thuốc lá, đậu tương, bầu bí, cây họ đậu về sau rễ cây bị thối rữa cây còi cọc kém phát triển lá úa vàng hoặc thân lá bị biến dạng.

- Trên củ khoai, bệnh xuất hiện theo chiều hướng xác định vết bệnh từ đầu củ lan dần xuống giữa và cuối củ theo chiều dọc, sau đó bệnh tấn công từ vỏ củ vào bên trong thịt củ theo chiều ngang, nếu tuyến trùng thì sự tấn công có thể ở bất cứ điểm nào trên củ khoai mà chắc chắn sẽ không theo mộât chiều hướng nào nhất định cả.

6. Thu hoạch và bảo quản

- Thời gian thu hoạch từ tháng 5 - tháng 6.

- Khi bảo quản cần chọn nơi khô mát, chất khoai thành đống, khi chất củ phải hơi nghiên để tránh đọng nước gây thối hỏng hoặc có thể làm máy che mưa.

* Chú ý: Trong quá trình bảo quản khoai có thể bi tấn công bởi rệp sáp (do kiến làm môi giới) và bệnh mục đầu củ.

TRUNG TÂM CHẾ PHẨM SINH HỌC
Địa chỉ: 95/6 Lương Định Của, Phường An Khánh, Tp Thủ Đức, Tp Hồ Chí Minh

Hotline: 0934.521.403 - 0906.949.101

Tư vấn nông nghiệp